Sử Dụng Phương Pháp Giảng Dạy Tích Cực Đối Với Các Môn Chuyên Ngành Luật

Sử dụng phương pháp giảng dạy tích cực đối với các môn chuyên ngành luật - kinh nghiệm áp dụng cho môn luật quốc tế.

TÓM TẮT

Phương pháp giảng dạy được hiểu những nguyên tắc, phương pháp hướng dẫn nhằm bảo đảm người học đạt được mục tiêu học tập (learning objectives). Việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng giảng dạy tích cực cũng là xu thế chung, là đòi hỏi cấp thiết của giai đoạn phát triển hiện nay của giáo dục và đào tạo mà UNESCO đã khẳng định:"cần giáo dục người học trở thành các công dân có khả năng suy nghĩ một cách có phê phán, phân tích đượ ;c các vấn đề xã hội, quan tâm đến các giải pháp để giải quyết các vấn đề xã hội và chấp nhận các trách nhiệm xã hội". Chính vì vậy, Nghị quyết số 29-NQ/TW của Trung ương Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nhấn mạnh: đối với giáo dục đại học, tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xác định đường lối đổi mới giáo dục theo hướng chuyển từ dạy học tiếp cận nội dung sang dạy học phát triển năng lực người học, tức là phát triển cho người học cả về kiến thức, kỹ năng và thái độ, thay cho cách dạy học nặng về truyền thụ nội dung kiến thức như trước đây.

Theo TS. Lê Văn Hào thì có 05 tiêu chí đòi hỏi để đánh giá phương pháp giảng dạy tích cực. Theo đó, phương pháp giảng dạy tích cực phải (i). thể hiện rõ vai trò của nguồn thông tin và các nguồn lực sẵn có; (ii). thể hiện rõ được động cơ học tập của người học khi bắt đầu môn học; (iii). thể hiện rõ được bản chất và mức độ kiến thức cần huy động; (iv). thể hiện rõ được vai trò của người học, người dạy, vai trò của các mối tương tá ;c trong quá trình học; (v). thể hiện được kết quả mong đợi của người học.

Nhìn chung, các phương pháp giảng dạy tích cực là khá đa dạng và có thể có những biến thể khác nhau, việc lựa chọn và áp dụng phương pháp giảng dạy nào cũng như áp dụng cho đối tượng người học nào và đối với môn học, chuyên ngành đào tạo nào là tùy thuộc vào người giảng dạy sao cho bảo đảm mục đích đào tạo, các mục tiêu cần đạt được và những kỹ năng nào cần trang bị cho người học. Có thể thấy rằng, phương pháp giảng dạy tích cO 21;c đều có mục tiêu là giảng dạy nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, lấy người học làm trung tâm. Với hình thức giảng dạy này, giảng viên đóng vai trò hướng dẫn cho người học phương pháp tự học, tự nghiên cứu, tự giải quyết vấn đề, nâng cao tính chủ động, sáng tạo của người học. Các phương pháp giảng dạy tích cực hoàn toàn có thể áp dụng cho các ngành đào tạo khác nhau, trong đó có thể áp dụng cho việc giảng dạy các môn học thuộc ngành đào tạo luật học tại các cơ sở đào tạo luật tại Việt Nam.

2. Khả năng áp dụng một số phương pháp giảng dạy tích cực

2.1. Làm việc nhóm

Một là, lớp học không quá đông (lý tưởng nhất là khoảng 30 người học).

Bốn là, người học đã phải làm quen từ trước với phương pháp làm việc này. Đây là một khó khăn cho đối tượng là người học luật bởi lẽ phần lớn đều từ học sinh phổ thông thường chưa được tiếp cận với phương pháp giảng dạy thuyết trình và làm việc nhóm cũng như các kỹ năng cần thiết. Bên cạnh đó, do điều kiện thực tế tại Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, các lớp thường có số lượng người học đông (khoảng trên dưN 99;i 100 người học/ lớp), những lớp nhỏ hơn (các lớp thuộc chương trình đào tạo đặc biệt) cũng có số lượng người học khoảng 40 - 50 người học/lớp nên sẽ gây ra những khó khăn đáng kể khi áp dụng phương pháp này.

2.2. Học dựa trên vấn đề

Trong phương pháp này, giảng viên đóng vai trò tích cực hơn so với người học. Đối với đặc thù của các môn luật, đây sẽ là phương pháp chủ yếu và hiệu quả nhất.

2.3. Đóng vai

Giảng viên tổ chức cho người học thực hành một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Phương pháp này áp dụng đối với đào tạo luật thường được gọi là "diễn án" và được áp dụng phổ biến tại các cơ sở đào tạo luật cũng như các khóa đào tạo luật sư của Học viện Tư pháp. Phương pháp này có ưu điểm là vừa bảo đảm sự nghiên cứu vừa vận dụng những kiến thức chuyên môn nhằm giải quyết vấn đề (thông qua việc nghiên cứu các quy định pháp luật và vận dụng nó trong việc đưa ra các phương án giải quyết vụ việc).

2.4. Nghiên cứu tình huống

Phương pháp này có thể áp dụng cho những dạng bài tập tình huống trên lớp (phục vụ cho nội dung giảng dạy) và dạng bài tập tình huống về nhà.

3. Một số khó khăn và thuận lợi trong thực tế áp dụng

4. Thực tế áp dụng

4.1. Đặt câu hỏi trong quá trình giảng

Người học sẽ được đặt các câu hỏi trong quá trình trình bày bài học. Các dạng câu hỏi bao gồm:

4.3. Sử dụng hệ thống các câu hỏi trắc nghiệm

Các câu hỏi trắc nghiệm được sử dụng trong quá trình giảng nhằm mục đích giúp cho người học có thể nắm vững hơn bài giảng hoặc củng cố kiến thức. Câu hỏi trắc nghiệm bao gồm các dạng sau:

- Câu hỏi sau khi kết thúc bài giảng: các câu hỏi dạng này có tác dụng củng cố kiến thức và tạo không khí thoải mái sau buổi học, giúp người học có thể nắm bắt nội dung bài học..

Trên cơ sở chuẩn bị, các nhóm sẽ lần lượt trình bày. Sau đó, các nhóm khác sẽ đặt câu hỏi cho nhóm trình bày này. Qua thực tế giảng dạy, nhìn chung người học có sự quan tâm, đặc biệt tích cực đối với phần đặt các câu hỏi. Người học cũng có thể cùng nhau hiểu rõ hơn vấn đề cần nghiên cứu thông qua việc cùng tìm kiếm tài liệu và đối chiếu thông tin, chia sẻ cách hiểu về vấn đề cần nghiên cứu cùng với sự hỗ trợ khi cần thiết của giảng viên.

4.5. Sử dụng video clip

4.6. Áp dụng một số phương pháp giảng dạy môn đọc - hiểu trong giảng dạy tiếng Anh

- Chọn câu trả lời đúng/ sai: người học được giao một đoạn văn (là một nội dung trong giáo trình luật quốc tế hoặc một tài liệu nghiên cứu dưới dạng bài viết) và bên dưới có sẵn các đáp án mà người học phải chọn (tick). Để trả lời các câu hỏi này, người học cần đọc và hiểu nội dung của đoạn tài liệu đã cho trước. Việc chọn các câu trả lời đúng và sau đó là sự hướng dẫn, giải đáp của giảng viên giúp người học nắm đ ược nội dung bài học tốt hơn.

- Chọn các câu hỏi thích hợp: người học được cho trước các câu nhận định hoặc câu hỏi đáp, trong đó các vế câu khác nhau được bố trí không theo thứ tự. Người học phải chọn câu trả lời/ vế câu nhằm gắn kết câu hỏi/ nhận định với câu trả lời/ vế câu thích hợp. Việc này cũng giúp người học có thể nắm vững các khái niệm trong bài học và tạo sự hứng thú, khả năng tích cực, chủ động của mình.

- Hoàn tất đoạn văn dùng các từ trong khung cho mỗi chỗ: người học sẽ được cung cấp một đoạn văn và được cho trước một số các thuật ngữ cần thiết để người học có thể chọn và gắn các thuật ngữ này để hình thành một đoạn văn hoàn chỉnh.

- Viết lại câu cho có nghĩa: người học được cho một đoạn đọc -hiểu và sẽ tóm tắt nội dung của đoạn văn đó. Ngoài ra, một số các kỹ năng kiểm tra khả năng đọc - hiểu khác cũng có thể được áp dụng như chọn câu trắc nghiệm đúng/ sai (multiple choice), trả lời câu hỏi sau mỗi đoạn đọc - hiểu...

Việc áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực có tác dụng khơi dậy sự năng động của người học, giúp người học làm quen với môi trường làm việc nhóm và tạo không khí thoải mái cho buổi học. Tuy nhiên, với những yêu cầu như đã phân tích, việc áp dụng các phương pháp này đòi hỏi sự đầu tư rất lớn từ phía giảng viên cũng như sự chủ động, tích cực từ phía người học. Đặc biệt, người học cần có sự làm quen ngay từ đầu đối với việc giảng dạy theo phương pháp này ở những môn học cơ bản. Đối với các môn học thuộc ngành luật, việc áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực có tác dụng giúp người học hứng thú, đam mê học tập, từ đó, khắc phục sự khô khan, nhàm chán của việc giảng dạy các môn học luật, đồng thời khơi dậy và rèn luyện khả năng tự học, tự nghiên cứu. Đó là những tố chất và năng lực cần thiết của các cử nhân luật trong tương lai.

CHÚ THÍCH

UNESCO, Article 9(b) "World declaration on higher education for the twenty-first century: vision and action", 1998, unesco.org/education/educprog/wche/principal/declar.html, truy cập ngày 15/12/2024.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, 2013.

Nhữ Thị Phương Lan, "Tìm hiểu một số phương pháp dạy học hiện đại nhằm phát triển tư duy cho học sinh trong dạy học lịch sử", Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, tập 14, số 4 /2024, tr. 83 - 93.

Nguyễn Thành Hải, Phùng Thúy Phượng, Đồng Thị Bích Thủy, "Giới thiệu một số phương pháp giảng dạy cải tiến giúp người học học tập chủ động và trải nghiệm, đạt các chuẩn đầu ra theo CDIO", 2010, ntu.edu.vn/Portals/96/Tu%20lieu%20tham%20khao/Phuong%20phap%20giang%20day/Cac%20PPGD%20tich%20cuc%20%28DH%20KHTN%20HCM%29.pdf, truy cập ngày 11/12/2024.

Nguyễn Thành Hải, Phùng Thúy Phượng, Đồng Thị Bích Thủy, tlđd.

Châu Văn Thành, tlđd.

Lê Văn Hào, Sổ tay phương pháp giảng dạy và đánh giá, Trường Đại học Nha Trang, 2006, egov.hufi.edu.vn/Media/Documents/sotayppgiangdayvadanhgia-2_19022024081046219_0k4d0u3v.say.pdf, truy cập ngày 13/12/2024.

Châu Văn Thành, tlđd.

Lê Văn Hào, tlđd.

Hiện nay các lớp thuộc chương trình Chất lượng cao tại Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh có số lượng khoảng 40 - 45 người học/ lớp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, 2013 [trans: Vietnamese Communist Party, Resolution No. 29-NQ/TW of Meeting of Central Poliburo session 8 XI on renewal education and traning fundamentally and comprensively, 2013]
  • Lê Văn Hào, Sổ tay phương pháp giảng dạy và đánh giá, Trường Đại học Nha Trang, 2006 [trans: Le Van Hao, A Notebook on teaching methodology and assessment, Nha Trang University],.egov.hufi.edu.vn/Media/Documents/sotayppgiangdayvadanhgia-2_19022024081046219_0k4d0u3v.say.pdf, accessed on 17/12/2024
  • Nhữ Thị Phương Lan, "Tìm hiểu một số phương pháp dạy học hiện đại nhằm phát triển tư duy cho học sinh trong dạy học lịch sử", Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, tập 14, số 4, 2024 [trans: Nhu Thi Phuong Lan, "Learning some modern teaching methods to develop critical thinking for students in teaching history subject", Journal of Sciences, Ho Chi Minh City University of Education, Book No. 14, Vol. 4(2024)]
  • UNESCO, Article 9(b) "World declaration on higher education for the twenty-first century: vision and action", 1998, unesco.org/education/educprog/wche/principal/declar.html, accessed on 17/12/2024

Tác giả: Trần Thăng Long - Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 02(123)/2024 - 2024, Trang 74-80

Nguồn: Luật sư Online - iluatsu.com

Next Post Previous Post